090 2077 959 - (028) 6650 6738 - (028) 6650 8738
·
vplsnguyenhung@gmail.com
·
Thứ 2 - Thứ 7 08:00-17:00
Bấm gọi Luật sư

Hình phạt cao nhất áp dụng với người dưới 18 tuổi khi phạm tội là gì?

Việc áp dụng hình phạt về hình sự đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội chủ yếu là giáo dục, cải tạo họ để họ nhận ra những sai lầm khuyết điểm mình. Nhiều người vẫn thường thắc mắc người phạm tội dưới 18 tuổi có bị tử hình không? Hãy cùng Luật Nguyễn Hưng đi tìm hiểu về hình phạt cao nhất áp dụng với người dưới 18 tuổi khi phạm tội là gì nhé!

Bao nhiêu tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự?

Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm nào?

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác.

Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm nào?

Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như: Điều 143, 150, 151, 170, 171, 173, 178, 248,…

Nguyên tắc xử lý hình sự với người dưới 18 tuổi khi phạm tội
Nguyên tắc xử lý hình sự với người dưới 18 tuổi khi phạm tội

7 nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội theo bộ luật hình sự

Nguyên tắc thứ nhất

Người dưới 18 tuổi được xem là người chưa thành niên, việc xử lý người dưới 18 tuổi luôn mang mục đích giáo dục, giúp đỡ người phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và hướng họ trở thành công dân có ích cho xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi

Khi xử lý người dưới 18 tuổi, phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Ví dụ như tuổi càng ít thì khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, môi trường sống cũng như trình độ học vấn cũng là một trong những yếu tố cần xem xét.

Nguyên tắc thứ hai

Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự:

– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật Hình sự;

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật Hình sự;

– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Nguyên tắc thứ ba

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

Nguyên tắc này cho thấy, chỉ khởi tố hình sự người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào đặc điểm nhân thân của họ như: phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, bị rủ rê, lôi kéo,…Cơ quan có thẩm quyền phải xem xét đặc điểm nhân thân trước rồi mới xét đến tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Nguyên tắc thứ tư

Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự hoặc việc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

Điều này đồng nghĩa với việc, cơ quan có thẩm quyền phải ưu tiên áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục, răn đe để người phạm tội có thể nhận thức được lỗi lầm và sửa chữa. Chỉ áp dụng hình phạt khi nhận thấy không thể áp dụng các biện pháp giáo dưỡng hay giám sát khác.

Nguyên tắc thứ năm

Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Nguyên tắc này thể hiện được tính nhân đạo của nhà nước, tạo cơ hội cho người chưa đủ nhận thức có thể ăn năn hối cãi, không mang tính loại từ người phạm tội ra khỏi đời sống và cũng không mang tính cách li người phạm tội ra khỏi môi trường xã hội. Khằng định nguyên tắc giáo dục người phạm tội dưới 18 tuổi.

Nguyên tắc thứ sáu

Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Nguyên tắc thứ bảy

Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thường là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm. Người phạm tội dưới 18 tuổi có tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thì Tòa án phải quyết định mức phạt nghiêm khắc hơn chứ không phải là tình tiết tăng nặng.

Hình phạt cao nhất áp dụng với người dưới 18 tuổi khi phạm tội
Hình phạt cao nhất áp dụng với người dưới 18 tuổi khi phạm tội

Mức phạt cao nhất đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội là gì?

Mức phạt cao nhất đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội là hình phạt tù, tùy theo độ tuổi và mức độ nguy hiểm của hành vi sẽ có thời hạn tù khác nhau.

Đối với từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi

Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

Đối với từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

Hy vọng qua bài viết về “Hình phạt cao nhất áp dụng với người dưới 18 tuổi là gì?” mang lại những kiến thức hữu ích dành cho quý độc giả. Nếu cần tư vấn giải đáp các vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ ngay Văn phòng luật sư Nguyễn Hưng và Cộng sự qua số điện thoại (028) 6650 6738 – (028) 6650 8738 để nhận được sự tư vấn hỗ trợ.

Đánh giá

Bài Viết Mới Nhất:

Hãy để luật sư giúp bạn!

Nếu bạn cần bất kỳ trợ giúp nào, xin vui lòng liên hệ ngay với Văn phòng luật sư Nguyễn Hưng và Cộng sự.

Gọi ngay : 090 2077 959

vplsnguyenhung@gmail.com Thứ 2 – Thứ 7 08:00-17:00